Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896) là đỉnh cao của phong trào Cần vương, và thất bại của
công cuộc này cũng đã đánh dấu sự kết thúc sứ mạng lãnh đạo chống thực dân Pháp của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam.
Lãnh đạo
chính của khởi nghĩa là Đình nguyên tiến
sĩ Phan Đình Phùng (1847 - 1895),
và một cộng sự đắc lực của ông là tướng Cao
Thắng (1864 - 1893).
Tập hợp lực lượng
Sau khi vua Hàm Nghi ban dụ Cần Vương (tháng 7 năm 1885),
ở Hà Tĩnh và Nghệ An đã bùng nổ nhiều phong trào đấu tranh vũ trang. Cuộc khởi
nghĩa đầu tiên là của Lê Ninh ở Trung Lễ (Đức Trung, Đức Thọ), sau đó lần lượt
là:
Khởi nghĩa của Cao Thắng, Cao Nữu ở Hàm Lại, Sơn Lễ
(Hương Sơn, Hà Tĩnh).
Khởi nghĩa của Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh ở Can Lộc (Hà
Tĩnh).
Khởi nghĩa của Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân (Hà
Tĩnh).
Khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Thuận ở Thạch Hà (Hà Tĩnh).
Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ ở Nghệ An,
v.v...
Trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa đó, sau khi được vua Hàm
Nghi và đại tướng Tôn Thất Thuyết giao trọng trách tổ chức phong trào kháng
Pháp ở Hà Tĩnh (tháng 10 năm 1885), Phan Đình Phùng đã tiến hành tập hợp, phát
triển thành một phong trào có quy mô rộng lớn, dưới sự chỉ đạo thống nhất là
ông.
Địa bàn hoạt động
Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm bốn tỉnh: Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình; với địa bàn chính là Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn
tại suốt 11 năm liên tục.
Ở bốn tỉnh này, Phan Đình Phùng đã chia địa bàn thành 15
quân thứ, đồng thời dựa vào địa thế rừng núi hiểm yếu, ông cho xây dựng lực lượng
và cơ sở chiến đấu chính nằm ở hai huyện Hương Sơn và Hương Khê (Hà Tĩnh). Theo
sử liệu thì Phan Đình Phùng đã cho xây dựng bốn căn cứ lớn, đó là:
Căn cứ Cồn Chùa ở xã Sơn Lâm (Hương Sơn, Hà Tĩnh), án ngữ
đường sang Nghệ An. Đây là nơi dự trữ lương thực và rèn đúc vũ khí.
Căn cứ Thượng Bồng-Hạ Bồng ở tây nam Đức Thọ (Hà Tĩnh) dựa
vào địa thế của sông Ngàn Sâu và Ngàn Trươi. Ngoài ra, Phan Đình Phùng còn cho
lập nơi đây hệ thống hào lũy, đồn trại, kho lương, bãi tập,...Đây là một căn cứ
lớn trong buổi đầu kháng chiến của nghĩa quân Hương Khê.
Căn cứ Trùng Khê-Trí Khê nằm ở hai xã Hương Ninh - Hương
Thọ thuộc huyện Hương Khê. Đây là căn cứ dự bị, có đường sang Lào, phòng khi bị
quân Pháp bao vây.
Căn cứ Vụ Quang ở phía tây Hương Khê. Nơi đây có địa hình
hiểm trở, tựa lưng vào dãy Trường Sơn. Từ đây, nghĩa quân có thể theo đường núi
vào Quảng Bình, Quảng Trị, ra Nghệ An, Thanh Hóa hay theo đường sông đi xuống
các vùng đồng bằng hoặc khi cần thiết có thể lánh sang Lào.
Tổ chức
Theo giúp Phan Đình Phùng, có các trí thức như tiến sĩ
Phan Trọng Mưu, cử nhân Phan Quảng Cư, Ấm Ninh (Lê Ninh),...và rất nhiều chỉ
huy xuất thân từ nhân dân lao động nghèo khổ như Cao Thắng, Nguyễn Chanh, Nguyễn
Trạch, Lê Văn Tạc, Phan Đình Can, Phan Đình Phong, Nguyễn Mục, Phan Bá Niên,...
Về tổ chức lực lượng, nghĩa quân được chia thành 15 quân
thứ: Hà Tĩnh có 10, Nghệ An có 2, Quảng Bình có 2, và Thanh Hóa có 1. Các quân
thứ được xây dựng trên các cơ sở đơn vị hành chính, thường là huyện, có khi là
xã, và lấy tên nơi đó để gọi. Liệt kê ra như sau:
Khê thứ ở huyện Hương Khê (Hà Tỉnh), chỉ huy là Nguyễn
Thoại.
Can thứ ở huyện Can Lộc (Hà Tĩnh), chỉ huy là Nguyễn
Chanh và Nguyễn Trạch.
Lai thứ ở tổng Lai Thạch thuộc Can Lộc (Hà Tĩnh), chỉ huy
là Phan Đình Nghinh.
Hương thứ ở huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), chỉ huy là Nguyễn
Huy Giao.
Nghi thứ ở huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), chỉ huy là Ngô Quảng
và Hà Văn Mỹ.
Cẩm thứ ở huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), chỉ huy là Hoàng Bá
Xuyên.
Thạch thứ ở huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh), chỉ huy là Võ Phát.
Diệm thứ ở làng Tình Diệm thuộc huyện Hương Sơn (Hà
Tĩnh), chỉ huy là Cao Đạt.
Lễ Thứ ở làng Trung Lễ, thuộc huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh), chỉ
huy là Nguyễn Cấp.
Kỳ thứ ở huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh), chỉ huy là Võ Phát.
Anh thứ ở huyện Anh Sơn (Nghệ An), chỉ huy là Nguyễn Mậu.
Diễn thứ ở huyện Diễn Châu (Nghệ An), chỉ huy là Lê Trọng
Vinh.
Thanh thứ ở Thanh Hóa, chỉ huy là Cầm Bá Thước.
Bình thứ ở Quảng Bình, chỉ huy là Nguyễn Thụ.
Lệ thứ ở huyện Lệ Thủy (Quảng Bình), chỉ huy là Nguyễn
Bí.
Mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 quân, đứng đầu là người có
năng lực và uy tín. Nghĩa quân có phục trang cùng một kiểu giống nhau.
Vũ khí của nghĩa quân, ngoài những thứ thông thường, họ
còn có khoảng 500 trăm khẩu súng tự chế (kiểu súng Pháp năm 1874) và rất nhiều
súng hỏa mai.
Phần lương thực và của cải chủ yếu là nhờ nhân dân đóng
góp.
Phương thức tác chiến
Nghĩa quân Hương Khê dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở với
hệ thống công sự chằng chịt để tiến hành chiến tranh du kích. Nghĩa quân luôn
phân tán hoạt động, đánh quân Pháp bằng nhiều hình thức, như: công đồn, chặn đường
tiếp tế, dùng cạm bẫy, và dụ đối phương ra ngoài đồn để diệt họ...
Diễn biến
Giai đoạn đầu (1885 - 1888)
Đây là giai đoạn chuẩn bị, xây dựng lực lượng và cơ sở
chiến đấu. Sau một vài trận tập kích và chống càn không hiệu quả, Phan Đình
Phùng cho quân rút về làng Phùng Công (Hương Sơn), rồi lại rút lên rừng núi
đánh du kích.
Đầu năm 1887, thấy thực lực nghĩa quân Hương Khê quá suy
yếu, Phan Đình Phùng giao quyền chỉ huy cho Cao Thắng để ra Bắc đến các tỉnh
Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh,...tìm sự hỗ trợ và liên kết lực lượng.
Ở lại Hà Tĩnh, Cao Thắng cùng các chỉ huy khác như Cao Nữu,
Cao Đạt, Nguyễn Niên,...đem quân đến làng Lê Động (Hương Sơn) để tổ chức lại lực
lượng, luyện quân, xây dựng hệ thống đồn lũy[6], rèn đúc vũ khí,...
Giai đoạn sau (1889 - 1896)
Cuối tháng 9 năm 1889, Phan Đình Phùng từ Bắc Kỳ trở về
Hà Tĩnh. Nhờ Cao Thắng và các chỉ huy khác, mà lực lượng lúc này đã có khoảng
ngàn lính và 500 khẩu súng tốt. Nhận thấy trong công tác chuẩn bị, mọi mặt đều
đã khá, Phan Đình Phùng bèn cho mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp bốn tỉnh là
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình; làm cản trở con đường đi lại Bắc-Nam
và công cuộc thôn tính nước Việt của quân Pháp.
Đối phó lại, thực dân Pháp cho bố trí nhiều đồn lẻ ở các
nơi để phong tỏa từng khu vực và kiềm chế hoạt động của nghĩa quân. Riêng ở
Hương Khê, đối phương đã cho lập tới 20 đồn, mỗi đồn có khoảng 30 lính đóng giữ.
Trong những năm từ 1889 đến 1892, nghĩa quân bốn tỉnh
trên đã phối hợp và hoạt động mạnh trên một vùng rộng lớn bao gồm Diễn Châu,
Yên Thành, Thanh Chương, Nghi Lộc,...để đánh trả và quấy rối quân Pháp. Theo
sách Việt sử tân biên[9], thì nghĩa quân đã tổ chức được 28 trận lớn nhỏ trong
giai đoạn này, để tập kích và chống càn quét, như là:
-Trận chống càn ở Cồn Chùa và Khe Đen do Đề Niên (Phan Bá
Niên) chỉ huy vào ngày 1 tháng 9 năm 1889.
-Trận tấn công đồn Dương Liễu vào ngày 15 và 16 tháng 12
năm 1889.
-Trận tấn công huyện lỵ Hương Sơn vào cuối tháng 12 năm
1889.
-Trận chống càn ở La Sơn và Thường Sơn do Đề Thăng và
Phan Trọng Mưu chỉ huy vào tháng 3 năm 1890.
-Trận phục kích đánh chặn quân Pháp tại làng Hốt (Phú Lộc,
Can Lộc) do Đốc Chanh (Nguyễn Chanh) và Đốc Trạch (Nguyễn Trạch) chỉ huy vào
tháng 4 năm 1890.
-Trận Trường Lưu (Can Lộc) vào đêm 26 rạng 27 tháng 5 năm
1890.
Đến đêm 31 tháng này, đồn Trường Lưu còn bị nghĩa quân đánh lần nữa, rồi
tiếp theo là đánh đồn Hương Sơn, v.v...
Sau nhiều trận thua đau, kể từ đầu năm 1892 trở đi, thực
dân Pháp cho mở nhiều cuộc càn quét, trong số ấy đáng kể là trận càn lớn vào
khu Hói Trùng và Ngàn Sâu, là căn cứ của Cao Thắng, vào đầu tháng 8 năm 1892.
Để đối phó với quân Pháp, Phan Đình Phùng bố trí một lực
lượng chống trả tại chỗ, một nhóm khác đi hoạt động ở phía sau lưng đối phương,
buộc họ phải rút về vì sợ bị đánh tập hậu. Trong khoản thời gian này, đã xảy ra
nhiều trận giao tranh, đáng kể là trận:
-Ngày 7 tháng 3 năm 1892, nghĩa quân Hương Khê tiến đánh
đồn Trung Lễ. Sau đó, Bá hộ Thuận (Nguyễn Hữu Thuận) còn tiến đánh huyện Thạch
Hà, bắt được viên tri huyện. Còn Cao Thắng thì cho quân giả làm lính khố xanh bắt
sống được Tuần phủ Đinh Nho Quang.
-Đêm 23 tháng 8 năm 1892, nghĩa quân Hương Khê do Bá hộ
Thuận (Nguyễn Hữu Thuận) chỉ huy đã táo bạo tập kích vào tỉnh lỵ Hà Tĩnh, phá
được nhà lao và giải phóng hơn 70 nghĩa quân bị cầm tù.
Thấy nghĩa quân Hương Khê ngày càng lớn mạnh, quân Pháp một
mặt tăng cường càn quét, thu hẹp phạm vi hoạt động của quân, mặt khác tìm cách
cắt đứt liên lạc giữa các quân thứ, và giữa nghĩa quân với nhân dân.
Để phá thế bị bao vây và mở rộng địa bàn hoạt động, được
Phan Đình Phùng đồng ý, tháng 11 năm 1893[10], Cao Thắng đưa khoảng một ngàn
quân từ Ngàn Tươi mở trận tấn công lớn vào tỉnh lỵ Nghệ An. Trên đường hành
quân, nhiều đồn trại đối phương bị phá bỏ. Nhưng trận tấn công đồn Nu ở Thanh
Chương (một huyện miền núi nằm ở phía tây nam thuộc tỉnh Nghệ An), Cao Thắng bị
thương nặng rồi hy sinh lúc 29 tuổi, gây tổn thất lớn cho nghĩa quân Hương Khê.
Lợi dụng cơ hội nghĩa quân bị mất người đứng đầu tài giỏi,
quân Pháp tăng thêm binh lực rồi siết chặt vòng vây. Nghĩa quân Hương Khê cố gắng
đánh trả những cuộc vây quét, nhưng thế lực của lực lượng ngày càng giảm sút.
Ngày 31 tháng 3 năm 1894, Bá hộ Thuân lại mang quân tập
kích vào tỉnh lỵ Hà Tĩnh lần nữa, nhưng sau đó phải rút lui về cố thủ tại núi
Quạt và núi Vụ Quang thuộc Hương Khê (nay thuộc huyện Vụ Quang).
Khoảng tháng 10 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1894), một đại thần
thân Pháp là Hoàng Cao Khải bắt tay vào việc khuyến dụ Phan Đình Phùng và nghĩa
quân của ông.
Năm 1895, thực dân Pháp điều võ quan thân Pháp là Nguyễn
Thân đến phối hợp với công sứ Nghệ An là Duvillier đem ba ngàn quân đi đàn áp
cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Quân chủ lực của Phan Đình Phùng bị đối phương bít
đường tiếp vận, nên vũ khí, lương thực, quân số thảy đều thiếu thốn, khó bù đấp.
Mỗi lần đối phương tấn công, nghĩa quân chỉ có thể chạy quanh từ núi Quạt rồi
trở về núi Vụ Quang, và không thể ở đâu lâu quá ba ngày.
Ngày 17 tháng 10 năm 1894, Phan Đình Phùng đã tập hợp lực
lượng, đánh thắng một trận lớn, đối phương mất nhiều vũ khí và bị giết chết rất
nhiều. Khởi đầu, ông cho quân lên tận nguồn sông chặt cây đóng kè chặn nước lại,
đồng thời chuẩn bị sẵn nhiều khúc gỗ lớn. Khi quân Pháp và quân triều đến giữa
dòng sông, thì ông cho phá kè trên nguồn, và tuôn cây xuống. Đối phương phần bị
nước cuốn, phần bị cây lao vào người, lại bị nghĩa quân ở hai bên bờ xông ra
đánh nên bị thương vong rất nhiều. Theo nhà sử học Phạm Văn Sơn thì sau trận
này, phía Pháp ngoài số quân trang và đạn dược bị mất mát, còn có ba sĩ quan và
trên trăm lính bị tiêu diệt.
Đây là trận thắng cuối cùng, vì gần ba ngàn quân do Nguyễn
Thân cầm đầu ngày càng xiết chặt vòng vây.
Trong một trận giao tranh ác liệt, Phan Đình Phùng bị
thương nặng, rồi hy sinh vào ngày 28 tháng 12 năm 1895. Mười hai ngày sau khi
thủ lĩnh Phan Đình Phùng mất, Nguyễn Thân mới tới được căn cứ Vụ Quang. Sau đó,
Nguyễn Thân cho quật mồ Phan Đình Phùng ở chân núi Quạt, đổ dầu đốt cho xương
thịt ông cháy thành tro, rồi trộn vào thuốc súng bắn xuống sông La.
Sang đầu năm 1896, một số chỉ huy lần lượt mất vì ở lâu
nơi rừng sâu nước độc, một số bị tử trận hoặc bị bắt rồi bị giết, một số khác
thì rút qua Xiêm La hoặc ra hàng...Khởi nghĩa Hương Khê đến đây kết thúc.
Nhận xét
Khởi nghĩa Hương Khê là đỉnh cao nhất của phong trào Cần
vương cuối thế kỷ 19, kéo dài suốt 10 năm, có quy mô rộng lớn, có tổ chức tương
đối chặt chẽ, lập được nhiều chiến công và gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề.
Cuộc khởi nghĩa đã huy động đến mức cao độ sự ủng hộ và tiềm năng to lớn của
nhân dân (người Kinh và người Thượng, của cả đồng bằng và miền núi). Về quân sự,
nghĩa quân đã biết sử dụng những phương thức tác chiến linh hoạt, chủ động,
sáng tạo trong quá trình chuẩn bị lực lượng cũng như khi giao chiến với đối
phương. Khởi nghĩa Hương Khê thất bại do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do nghĩa
quân chưa biết liên kết, tập hợp lực lượng, phát triển thành phong trào toàn quốc.
Đó cũng chính là những hạn chế của thời đại, của bộ phận lãnh đạo phong trào Cần
vương nói chung.
Không có nhận xét nào :